Nội dung bài viết [Ẩn]
Để có thể bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh với những doanh nghiệp mới được thành lập, hay việc mở rộng quy mô, ngành nghề kinh doanh với những doanh nghiệp đã có thời gian hoạt động nhất định nhu cầu về vốn là một trong những nhu cầu cấp thiết giúp doanh nghiệp thực hiện những hoạt động này. Tùy theo lại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức tạo vốn để hoạt động và huy động vốn khác nhau.
Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198Các hình thức huy động vốn hoạt động của các doanh nghiệp phổ biến hiện nay:
Vốn góp ban đầu là phần vốn góp được hình thành do các chủ sở hữu cùng nhau đóng góp khi doanh nghiệp được thành lập. Hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là một phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận từ các khoản phải thu được trong năm để tái đầu tư thay vì chia lãi cổ phần, các cổ đông sẽ không được cổ tức nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2010: "Cổ phiếu được hiểu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành."
Vốn huy động từ việc doanh nghiệp phát hành cổ phiếu là một kênh rất quan trọng để doanh nghiệp huy động vốn dài hạn cho công ty một cách rộng rãi. Phát hành cổ phiếu thông qua mối liên hệ với thị trường chứng khoán.Điều kiện để doanh nghiệp chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm:
"a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán;
c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua;
d) Công ty đại chúng đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng phải cam kết đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường có tổ chức trong thời hạn một năm, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua." (Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Chứng khoán 2006, được bổ sung bởi Khoản 7 Điều 1 Luật chứng khoán sửa đổi 2010)
Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng với bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế) trong đó Ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng ngân hàng có nhiều hình thức khác nhau như: hợp đồng tín dụng từng lần, cho vay theo thời hạn mức tín dụng, thỏa thuận tín dụng tuần hoàn, cho vay đầu tư dài hạn, v.v
Xem thêm: Thủ tục tăng vốn điều lệ công ty TNHH một thành viênTín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này được hình thành tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay mua bán trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại không chỉ có sức ảnh hưởng to lớn với các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế.
Có ba loại tín dụng thương mại:
Trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi, và các nghĩa vụ khác (nếu có) của doanh nghiệp đối với nhà đầu tư sở hữu trái phiếu.
Người phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của chủ sở hữu trái phiếu có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô danh).Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng:
"a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm;
c) Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua;
d) Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác." (Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật chứng khoán 2006)
Ngoài các hình thức như trên, doanh nghiệp còn có thể huy động vốn qua một số hình thức khác như: vay từ cá nhân, tổ chức khác; quỹ đầu tư cá nhân, tổ chức; cho thuê tài chính,v.v
Xem thêm: Bán vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lênKhuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm