Phát hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu là loại chứng khoán thường được các doanh nghiệp sử dụng để huy động vốn. Cả hai cách thức luôn mang lại lợi thế trong kinh doanh cho công ty nhưng cũng tiềm ẩn những bất lợi, có thể ảnh hưởng lớn đến cơ chế quản lý, vận hành của công ty.
Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư Nguyễn Hoài Thương – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó (điều 121 Luật Doanh nghiệp năm 2020)
Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của tổ chức phát hành (khoản 3 điều 4 Luật Chứng khoán 2019)
Khi mua cổ phiếu, người mua sẽ trở thành cổ đông của công ty, có quyền tham gia một số hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Trong khi đó, người mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ cho công ty.
Vì vậy đối với người mua cổ phiếu, họ sẽ được chia cổ tức, số cổ tức này sẽ căn cứ vào kết quả kinh doanh của công ty, đồng thời sẽ chịu trách nhiệm tài sản trong phạm vi số vốn góp đối với các khoản nợ của công ty. Trong khi đó, đối với người mua trái phiếu, họ sẽ được thanh toán nợ, trả lãi định kỳ, lãi suất ổn định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh cũng như không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào về việc thanh toán các khoản nợ cho công ty.
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có quy mô vốn lớn; nhiều cổ đông và có cơ chế huy động vốn rất linh hoạt. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, công ty cổ phần luôn đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Từ đó cần huy động nguồn vốn từ bên ngoài cũng như trong nội bộ công ty. Trong số các cách thức huy động vốn hiện có, thì huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu hay trái phiếu là những cách thức phổ biến nhất các công ty cổ phần thường sử dụng.
Cho phép công ty huy động vốn có hiệu quả các nguồn tài chính trong xã hội để có một số vốn lớn và ổn định cho đầu tư kinh doanh. Đặc trưng của hình thức này là tăng vốn những không tăng nợ của doanh nghiệp mà sẽ làm tăng vốn điều lệ (và vì vậy tăng vốn chủ sở hữu) của công ty.
Việc phát hành cổ phiếu cũng có nghĩa là bán một phần quyền sở hữu công ty cho người mua cổ phiếu. Điều này có thể dẫn đến thay đổi vị thế của từng cổ đông trong công ty. Vì vậy có thể thay đổi cơ cấu quản lí và kiểm soát công ty. Do đó công ty cần cân nhắc nếu như không muốn có sự xáo trộn lớn giữa quyền; lợi ích giữa các cổ đông trong công ty.
Thông thường công ty cổ phần sẽ phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Khi công ty thực hiện hình thức huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu; việc tăng vốn luôn gắn liền với tăng nợ cho công ty. Với hình thức này, công ty cổ phần có thể huy động được một lượng vốn cần thiết. Chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn. Bên cạnh đó không bị người cho vay kiểm soát chặt chẽ so với các hình thức vay vốn khác.
Có một lưu ý rằng khi công ty có ý định huy động vốn bằng phát hành trái phiếu. Công ty phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh được áp lực nợ khi đến hạn. Vẫn có lợi nhuận khi kinh tế suy thoái và lạm phát cao xảy ra. Chi phí phát hành trái phiếu cao vì công ty cần sự trợ giúp của ngân hàng thương mại. Công ty cổ phần phải đáp ứng đủ 2 điều kiện sau thì mới được phát hành trái phiếu: tài sản cố định nhỏ hơn tổng số vốn; và nợ dài hạn của doanh nghiệp.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm