Người thành lập doanh nghiệp là một khái niệm được quy định tại khoản 25 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2020: “Người thành lập doanh nghiệp là cá nhân, tổ chức thành lập hoặc góp vốn để thành lập doanh nghiệp.”. Theo đó đây là người tham gia vào quá trình thành lập doanh nghiệp và có thể “được ký các loại hợp đồng phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp trước và trong quá trình đăng ký doanh nghiệp”
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp, gọi tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198Về nguyên tắc theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2020 thì trường hợp doanh nghiệp được thành lập thì doanh nghiệp sẽ tiếp nhận quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng do người thành lập doanh nghiệp ký trước khi có Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Tuy nhiên với trường hợp doanh nghiệp không được thành lập thì Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định tại khoản 3 Điều 18 đó là “người ký kết hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này chịu trách nhiệm hoặc người thành lập doanh nghiệp liên đới chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng đó”.
Riêng đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân, vì đặc tính không có tư cách pháp nhân sau khi thành lập nên sẽ không đặt ra vấn đề phân biệt trách nhiệm của chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp tư nhân trước và sau khi thành lập. Trong mọi trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân đều phải chịu trách nhiệm vô hạn. Vấn đề chịu trách nhiệm của hợp đồng ký trước khi thành lập doanh nghiệp chỉ đặt ra đối với người thành lập doanh nghiệp là thành viên công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ đông sáng lập công ty cổ phần. Với công ty hợp danh thì tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 177 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định như sau: "b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.”
Có ba vấn đề cần lưu ý đối với hợp đồng ký trước khi thành lập doanh nghiệp:
Đầu tiên, về các bên trong hợp đồng. Trong hợp đồng ký trước khi thành lập doanh nghiệp để phục vụ cho việc thành lập và hoạt động thành lập có thể có hoặc không có bên thứ ba. Các hợp đồng liên quan đến bên thứ ba thường thấy trên thực tế là hợp đồng là hợp đồng thuê trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc thỏa thuận nguyên tắc về tuyển dụng nhân viên. Hợp đồng không liên quan đến bên thứ ba thường được giao kết trên thực tế là là hợp đồng giữa những người thành lập doanh nghiệp về việc góp vốn và chia sẻ chi phí trước khi thành lập doanh nghiệp hoặc chia sẻ quyền quản lý doanh nghiệp. Hợp đồng này có thể đề cập đến trách nhiệm của doanh nghiệp khi doanh nghiệp được thành lập. Bên cạnh đó, hợp đồng riêng giữa những người thành lập doanh nghiệp với nhau cũng thể được coi là hợp đồng phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai, về mục đích của hợp đồng. Hợp đồng này bắt buộc phải nhằm mục đích “phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên pháp luật chưa có quy định rõ ràng về tiêu chí để xác định được mục đích như vậy, nên khi giao kết hợp đồng các bên cần nêu rõ mục đích này trong hợp đồng.
Thứ ba, về thỏa thuận về trách nhiệm của các bên. Với trường hợp doanh nghiệp không được thành lập thì pháp luật cho phép những người thành lập doanh nghiệp được thảo thuận với nhau về trách nhiệm liên quan đến hợp đồng hoặc thỏa thuận đã giao kết. Vì vậy để tránh những rủi ro không đáng có thì trong hơp đồng giữa những người thành lập doanh nghiệp hoặc với bên thứ ba cần được làm rõ về vấn đề trách nhiệm.
Tại quy định của Luật doanh nghiệp 2014 thì chưa có tiêu chí để đánh giá mức độ trách nhiệm của những người thành lập doanh nghiệp khi doanh nghiệp chưa được thành lập. Trên thực tế bản chất pháp lý của quan hệ giữa người thành lập doanh nghiệp và doanh nghiệp cần phải được xem xét kỹ lưỡng.
Ví dụ như cách giải quyết trong trường hợp một người thành lập doanh nghiệp giao kết hợp đồng thuê trụ sở chính của doanh nghiệp nhưng lại thu lợi cho bản thân người đó (ví dụ như hưởng hoa hồng từ bên cho thuê). Vậy với trường hợp này thì người thành lập doanh nghiệp đó có cần công bố thông tin này không? Hay nếu việc thu lợi là bất chính thì người thành lập doanh nghiệp này có phải trả khoản tiền thu lợi bất chính ấy cho doanh nghiệp hay không? Việc thu lợi bất chính như vậy thì công ty có quyền khởi kiện hay có thể coi là giao dịch vô hiệu không? Pháp luật chưa có quy định nào rõ ràng để điều chỉnh vấn đề này.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm