Mua bán doanh nghiệp là việc chủ sở hữu doanh nghiệp chuyển nhượng toàn bộ vốn hoặc chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần chi phối cho bên nhận chuyển nhượng, dẫn đến bên nhận chuyển nhượng có quyền sở hữu toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp và kiểm soát được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được mua lại.
Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư Nguyễn Hoài Thương – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198Trước hết, mua bán doanh nghiệp có bản chất của quan hệ mua bán tài sản theo quy định của pháp luật dân sự “là hành vi trao đổi giữa người mua hàng nhận được quyền sở hữu hàng hoá từ người bán bằng cách trả một số tiền theo sự thỏa thuận về giá của hai bên".
Với thương vụ mua bán doanh nghiệp, bên bán doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu “hàng hoá” chính là một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp cho bên mua. Bên mua có thể là chủ sở hữu hoặc bên mua mua một phần hay mua toàn bộ doanh nghiệp mục tiêu tùy thuộc vào việc bên mua mua toàn bộ hay một phần doanh nghiệp mục tiêu.
Sau khi bán bên bán sẽ không còn quyền sở hữu đối với một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đã bán và đổi lại bên bán sẽ được bên mua thanh toán một số tiền hoặc tài sản khác. Hình thức thanh toán có thể là tiền mặt, chứng khoán của công ty mua hoặc những tài sản khác có giá trị đối với công ty bán
Tuy nhiên, khác với các hàng hoá khác, doanh nghiệp với tính chất là một loại 'hàng hoá đặc biệt' được thể hiện với các yếu tố cấu thành doanh nghiệp, bao gồm: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, có tư cách pháp lý độc lập; có các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh; có hệ thống bộ máy quản trị doanh nghiệp và hệ thống nhân sự, lực lượng lao động. Như vậy, mua bán doanh nghiệp là việc bên mua sẽ sở hữu một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp và thâu tóm được tài sản cùng các quyền năng của doanh nghiệp.
Nói cách khác, chỉ được coi là mua doanh nghiệp khi bên mua mua được các yếu tố cấu thành một chỉnh thể là doanh nghiệp, mua được các tập hợp quyền gắn liền với doanh nghiệp nợ của mục tiêu.
Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt với các hình thức đầu tư tài chính. Mua bán doanh nghiệp phải đáp ứng tiêu chí là bên mua phải giành quyền sở hữu toàn bộ hoặc phần vốn chi phối của chủ sở hữu doanh nghiệp mục tiêu đủ để tham gia vào bộ máy quản trị doanh nghiệp và kiểm soát được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mục tiêu.
Quyền kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu thể hiện phối để có quyền biểu quyết tại các cuộc họp của các cơ quan quản trị doanh nghiệp mục tiêu và thông qua các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp (quyết định phương hướng kinh doanh, tổ chức lại doanh nghiệp, thay đổi cơ cấu nhân sự, sửa đổi Điều lệ của doanh nghiệp mục tiêu ...).
Tỉ lệ vốn chi phối để thực hiện quyền kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu do pháp luật hoặc điều lệ doanh nghiệp mục tiêu quy định. Tỷ lệ phần vốn chi phối ở mỗi một doanh nghiệp có thể khác nhau phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh, quy mô kinh doanh và số lượng chủ sở hữu doanh nghiệp.
Đặc điểm thứ hai là sẽ phân biệt mua bán và sáp nhập doanh nghiệp; phân biệt trường hợp chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp tạo thành thương vụ mua bán doanh nghiệp và những trường hợp chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp khác chỉ là hình thức đầu tư tài chính.
Chủ thể có quyền bán doanh nghiệp phải là chủ sở hữu doanh nghiệp, chủ thể mua doanh nghiệp là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua doanh nghiệp và có quyền mua doanh nghiệp.
Chủ thể bán doanh nghiệp: Chủ thể có quyền bán doanh nghiệp có thể khác nhau tùy thuộc vào cách hiểu về mua bán doanh nghiệp. Doanh nghiệp là đối tượng của thương vụ mua bán doanh nghiệp chứ không phải là chủ thể bán doanh nghiệp. Chỉ có chủ sở hữu doanh nghiệp mới là chủ thể có quyền bán doanh nghiệp.
Chủ thể có quyền mua doanh nghiệp: Bên mua doanh nghiệp là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua bán doanh nghiệp, là đối tượng được mua doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Bên mua doanh nghiệp có thể mua doanh nghiệp bằng việc mua lại hoặc nhận chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp của chủ sở hữu doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu mới của doanh nghiệp.
Hình thức mua bán doanh nghiệp là hợp đồng, có thể là hợp đồng mua bán doanh nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp chi phối (gọi chung là hợp đồng mua bán doanh nghiệp).
Hợp đồng được các bên ký kết đối với trường hợp mua bán doanh nghiệp tư nhân, bán doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Hợp đồng chuyển nhượng vốn được ký kết giữa chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên và bên nhận chuyển nhượng toàn bộ vốn điều lệ hoặc phần vốn chi phối của chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên.
Thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên, cổ phần công ty cổ phần, thành viên hợp danh công ty hợp danh có thể chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần của mình. Hình thức pháp lí ghi nhận quan hệ chuyển nhượng này là hợp đồng chuyển nhượng vốn góp, cổ phần.
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp, gọi tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198Mua bán doanh nghiệp phải được sự cho phép hoặc thừa nhận, kiểm soát của các cơ quan nhà nước theo những thủ tục pháp lý nhất định.
Trong một số trường hợp, khi đạt tới một mức doanh thu hoặc thị phần kết hợp đến “ngưỡng” phải kiểm soát hành vi mua bán doanh nghiệp theo quy định của pháp luật cạnh tranh thì các bên phải thông báo tới cơ quan quản lí cạnh tranh trước khi thực hiện thương vụ đó. Điều đó có nghĩa là các bên chỉ được thực hiện thương vụ mua bán sau khi được sự chấp thuận của cơ quan quản lí cạnh tranh.
Đối với các thương vụ mua bán chưa đạt tới “ngưỡng” pháp luật cạnh tranh cấm thì các bên mua bán được tự do mua bán mà không phải xin phép cơ quan quản lí cạnh tranh.
Tuy nhiên, do có sự chuyển giao các quyền, nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp được mua cho bên mua nên các bên cần phải đăng ký thay đổi chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc thông báo bằng văn bản về việc bán doanh nghiệp. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ thừa nhận các thương vụ mua bán tuân thủ đúng quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục này.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm