Bảo hộ sáng chế theo quy định của pháp luật hiện hành

Bởi Huỳnh Thu Hương - 16/10/2021
view 53
comment-forum-solid 0

Bảo hộ sáng chế là một trong những quy định bảo hộ các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2019.

bảo hộ sáng chế  Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật thương mại, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Sáng chế là gì? Hiểu như thế nào về đăng ký sáng chế?

Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm mục đích giải quyết một vấn đề nào đó thông qua việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Bằng độc quyền sáng chế là phương thức đầu tiên được đề cập đến để sáng chế được pháp luật bảo hộ.

Sáng chế được tạo ra bởi một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải có sự đầu tư về lợi ích vật chất, thời gian và công sức. Do đó, để tránh tình trạng sáng chế bị đánh cắp sử dụng bất hợp pháp bởi chủ thể không sáng tạo ra chúng thì chủ thể có quyền phải đăng ký sáng chế đó nhằm xác lập quyền sở hữu trí tuệ của mình. 

Đăng ký bảo hộ sáng chế chính là hình thức để chủ thể có quyền bước đầu thực hiện bảo hộ sáng chế. Đây chính là căn cứ để xác lập quyền sở hữu hợp pháp đối với sáng chế. Đăng ký sáng chế sẽ đem lại lợi nhuận cho chủ sở hữu sáng chế cũng như tạo ra những lợi ích vật chất, nâng cao năng suất trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. 

Điều kiện bảo hộ sáng chế theo pháp luật hiện hành

Điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ

Sáng chế được pháp luật bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế phải đáp ứng các điều kiện cơ bản sau đây:

  • Có tính mới;
  • Có trình độ sáng tạo;
  • Có khả năng áp dụng công nghiệp.

Ngoài hình thức bảo hộ bằng cấp Bằng độc quyền sáng chế thì sáng chế còn được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu sáng chế đó không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện:

  • Có tính mới;
  • Có khả năng áp dụng công nghiệp.

Tính mới của sáng chế

Tính mới của sáng chế được thể hiện như sau: Sáng chế được công nhận là mới nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

"Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên".

Điều này có nghĩa là sáng chế đáp ứng được tính mới khi: Thứ nhất, trong đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế không trùng với giải pháp được mô tả trong đơn khi cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế đã được nộp cho cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu tiên sớm hơn. Thứ hai, trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên (trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên) sáng chế chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài.

Từ những phân tích trên, có thể thấy, tính mới của sáng chế là một đặc tính vô cùng quan trọng để sáng chế đó được xem xét cấp Văn bằng bảo hộ.

Trình độ sáng tạo của sáng chế

Trình độ sáng tạo của sáng chế theo Điều 61 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2019 quy định như sau:

"Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng."

Như vậy, trình độ sáng tạo của sáng chế có thể được hiểu là kết quả của một ý tưởng, không nảy sinh một cách hiển nhiên từ một người có kỹ năng thông thường trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng. Nếu sáng chế đăng ký bảo hộ được đánh giá về trình độ sáng tạo không có gì đặc biệt, là sản phẩm có thể được sáng tạo bởi người có trình độ trung bình ở cùng ngành kỹ thuật tương ứng mà không cần phải có bản mô tả sáng chế của người yêu cầu nộp đơn cũng sáng tạo ra được thì sáng chế đăng ký bảo hộ đó không đáp ứng về trình độ sáng tạo.

Khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế

Đây là một trong những tiêu chí bảo hộ sáng chế đánh giá giá trị kinh tế của sáng chế. Theo Điều 62 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế được hiểu là:

"Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định".

Xuất phát từ yêu cầu của sáng chế là một giải pháp kỹ thuật nhằm giải quyết vấn đề thực tiễn trong xã hội nên có thể khẳng định tiêu chí này là một yêu cầu luôn gắn liền với thực tiễn xã hội. Do đó, sáng chế  đòi hỏi phải tạo ra được giá trị trong việc áp dụng công nghiệp, phục vụ được nhu cầu của xã hội. Khả năng áp dụng công nghiệp này thường được đánh giá dựa trên các yếu tố:

  • Quy luật tự nhiên
  • Khả năng áp dụng trong thực tế
  • Việc thực hiện lặp lại đối tượng
  • Hiệu quả của giải pháp

Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế

Không phải mọi đối tượng công nghiệp được chế tạo ra thì đều được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế. Theo Điều 59 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 thì những đối tượng sau đây không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế:

- Phát minh, phương pháp toán học, lý thuyết khoa học.

- Sơ đồ, quy tắc, kế hoạch và phương pháp để thực hiện hoạt động trí óc, thực hiện trò chơi, huấn luyện vật nuôi, kinh doanh, chương trình máy tính.

- Cách thức thể hiện thông tin.

- Giải pháp chỉ mang tính thẩm mỹ.

- Giống thực vật, động vật.

- Quy trình sản xuất thực vật, động vật chỉ mang bản chất sinh học, không phải là quy trình vi sinh.

- Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán, chữa bệnh cho người, động vật.

Như vậy, nếu đối tượng sáng chế thuộc một trong những đối tượng trên thì sẽ không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.

Để biết thêm thông tin liên quan bạn đọc có thể tham khảo vấn đề Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Thời hạn bảo hộ sáng chế là bao lâu?

Căn cứ tại Điều 93 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 thì hiệu lực của văn bằng bảo hộ sáng chế được quy định như sau:

– Về phạm vi bảo hộ sẽ có hiệu lực trên toàn lãnh thổ nước Việt Nam

– Về thời hạn bảo hộ sáng chế sẽ có hiệu lực kể từ ngày cấp đến hết 20 năm, kể từ ngày chủ thể nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng chế. Đối với Bằng độc quyền giải pháp hữu ích thì thời hạn bảo hộ là 10 năm, kể từ ngày nộp đơn.

Khi hết thời hạn nêu trên chủ thể đăng ký bảo hộ có thể thực hiện thủ tục gia hạn duy trì hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Đồng thời chủ sở hữu cần phải phải nộp lệ phí theo quy định pháp luật. 

Để có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề, mời bạn đọc xem thêm thông tin về Sở hữu trí tuệ 

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.
Huỳnh Thu Hương

Huỳnh Thu Hương

https://everest.org.vn/chuyen-vien-huynh-thu-huong/ Chuyên viên Huỳnh Thu Hương có hơn 2 năm kinh nghiệm tư vấn trong lĩnh vực luật đất đai, doanh nghiệp ,hình sự, dân sự,ly hôn...

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.35545 sec| 1034.875 kb