Nội dung bài viết [Ẩn]
Khi các nhà đầu tư có mong muốn chung vốn, nguồn lực để kinh doanh, nhưng chưa sẵn sàng để thành lập một tổ chức kinh tế, các bên thường lựa chọn hình thức đầu tư bằng việc thỏa thuận ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh (Hợp đồng BCC). Bản chất của hợp đồng này chính là những giao dịch dân sự, thương mại, đề cao sự tự do thoả thuận của các bên, miễn không trái với quy định pháp luật.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh hay thường gọi là Hợp đồng BCC là một hình thức đầu tư được quy định của Luật Đầu tư năm 2020 (điều 3), được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế. Theo đó, nhà đầu tư cùng góp vốn, cùng quản lý kinh doanh và cùng chịu rủi ro.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định về hợp đồng hợp tác là một dạng của hợp đồng dân sự, ra đời trên cơ sở nhu cầu tập hợp nguồn lực nhằm cùng sản xuất, kinh doanh. Các cá nhân, pháp nhân cùng hợp tác, liên kết với nhau bằng một hợp đồng hợp tác đề cung sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn.
Chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể tham gia của (02) hai, (03) ba, (04) bốn hay nhiều bên mà không trái với quy định của pháp luật. Có thể có nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Nhà đầu tư (không phân biệt quốc tịch) có thể trở thành chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh, gồm (03) ba nhóm sau: (i) Tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; (ii) Cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam; (iii) Cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.
Như vậy, mọi tổ chức, cá nhân là nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài, thuộc sở hữu Nhà nước hay sở hữu tư nhân đều có thể trở thành chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Khi ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, các bên cầu lưu ý các nội dung chủ yếu sau:
(1) Tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng; địa chỉ giao dịch hoặc địa chỉ nơi thực hiện dự án;
(2) Mục tiêu và phạm vi hoạt động đầu tư kinh doanh;
(3) Đóng góp của các bên tham gia hợp đồng và phân chia kết quả đầu tư kinh doanh giữa các bên;
(4) Tiến độ và thời hạn thực hiện hợp đồng;
(5) Quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng;
(6) Sửa đổi, chuyển nhượng, chấm dứt hợp đồng;
(7) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh, các bên tham gia hợp đồng được thỏa thuận sử dụng tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh để thành lập doanh nghiệp. Các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có quyền thỏa thuận những nội dung khác không trái với quy định của pháp luật.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư phổ biến, thông dụng hiện nay. Các bên hợp tác dễ dàng tiến hành hoạt động kinh doanh, triển khai nhanh các dự án, thời hạn đầu tư không bị kéo dài, nhà đầu tư có thể sớm thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh do không mất thời gian thực hiện thủ tục thành lập, quản lý một doanh nghiệp và đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới. Do đó, đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể giúp các nhà đầu tư tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức và tiền bạc.
Với hình thức đầu tư này, các bên có thể tận dụng thế mạnh của nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ví dụ, nhà đầu tư trong nước với sự am hiểu về thị trường của mình sẽ giúp cho việc gia nhập thị trường của nhà đầu tư nước ngoài nhanh chóng và giảm thiểu tối đa rủi ro do sự thiếu hiểu biết môi trường cạnh tranh. Trong khí đó, nhà đầu tư nước ngoài với lợi thế về kỹ thuật, công nghệ hiện đại, mô hình tổ chức quản lý tiên tiến sẽ thúc đẩy hoạt động hợp tác phát triển và đem lại hiệu quả, lợi ích mà các bên mong muốn.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp lý của mình, nhân danh chính mình thực hiện hợp đồng. Chính điều này tạo nên sự linh hoạt chủ động trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh trên cơ sở bình đẳng, không ràng buộc.
Khi thực hiện dự án đầu tư, các bên sẽ khó khăn hơn trong việc ký kết các hợp đồng phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh, bởi không có tổ chức đại diện (các bên phải cử một bên để thực hiện việc ký kết hợp đồng với bên thứ ba). Vì không thành lập tổ chức kinh tế (không phải là pháp nhân) hai bên không có con dấu chung. Khi đó, hai bên phải tiến hành thỏa thuận sử dụng con dấu của một bên để phục vụ hoạt động đầu tư kinh doanh. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không phù hợp với những dự án có thời gian dài và yêu cầu việc quản lý, kinh doanh phức tạp.
Đầu tư theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh tuy đã được quy định trong Luật Đầu tư năm 2020 nhưng mới chỉ dừng lại ở những quy định mang tính chất chung. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết về hình thức đầu tư theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Do vậy, nhà đầu tư cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi lựa chọn hình thức đầu tư này để tránh gặp phải rủi ro.
Xem thêm: Lập hóa đơn hợp đồng hợp tác kinh doanh thế nào?
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm