M&A tại Việt Nam và những vấn đề cơ bản cần biết về M&A

Bởi Hồ Thị Ngọc Ánh - 03/03/2021
view 501
comment-forum-solid 0

Hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) đã diễn ra khá phổ biến ở Việt Nam. Quy định về M&A tại Việt Nam chủ yếu được đề cập ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, do vậy, để có thể nâng cao ưu thế so với các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước cần lưu ý một số vấn đề pháp lý đối với hoạt động M&A tại Việt Nam đang được áp dụng hiện nay.

luật công ty Bài viết được thực hiện bởi chuyên viên pháp lý Hồ Thị Ngọc Ánh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198

Khái niệm M&A tại Việt Nam

Trước khi nhận biết được một thương vụ M&A tại Việt Nam thì phải hiểu được định nghĩa cụm từ M&A nghĩa là gì. M&A là viết tắt của hai cụm từ tiếng Anh: Mergers (Sáp nhập) và Acquisitions (Mua lại). Hoạt động M&A là hoạt động giành quyền kiểm soát doanh nghiệp thông qua hình thức sáp nhập hay mua lại một phần (số cổ phần) hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác. Mục đích của một thương vụ M&A không đơn thuần chỉ là sở hữu cổ phần, mà nhằm mục đích tham gia và quyết định các vấn đề quan trọng, tác động đến hoạt động kinh doanh, hoạt động quản trị của doanh nghiệp bị sáp nhập/mua lại.

Mergers (Sáp nhập) là sự liên kết giữa các doanh nghiệp có cùng quy mô; cho ra đời một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân mới. Toàn bộ tài sản, lợi ích chung, quyền nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập; bị mua lại sẽ “về tay” doanh nghiệp sáp nhập.

Acquisitions (Mua lại) là hình thức một doanh nghiệp lớn sẽ mua lại những doanh nghiệp nhỏ và yếu hơn và doanh nghiệp mua vẫn giữ tư cách pháp nhân cũ. Doanh nghiệp mua lại được quyền sở hữu hợp pháp đối với doanh nghiệp được mua.

Phân loại giao dịch M&A tại Việt Nam

Có thể phân giao dịch M&A tại Việt Nam thành hai loại chính là mua cổ phần (share acquisition) và mua tài sản (business acquisition). Dưới đây là giới thiệu cơ bản về hai loại giao dịch này.

Mua cổ phần

Mua cổ phần là cách thức mà bên mua sẽ mua cổ phần, phần vốn góp trong một công ty đã được thành lập; đang tồn tại (gọi là "công ty mục tiêu") nhằm trở thành chủ sở hữu duy nhất, cổ đông hoặc thành viên (gọi là "cổ đông") của công ty mục tiêu và nhờ đó có quyền điều hành công ty mục tiêu và gián tiếp sở hữu tài sản mà công ty mục tiêu có.

Cổ phần được mua bán có thể là cổ phần hiện hữu sẽ được bán từ cổ đông này sang cổ đông khác; hoặc là cổ phần mới do công ty mục tiêu phát hành.

Số lượng cổ phần mà bên mua mua được càng cao; thì hai quyền năng là quyền điều hành công ty mục tiêu và quyền sở hữu gián tiếp tài sản mà công ty mục tiêu có càng lớn.

Cổ phần mà bên mua mua được trở thành tài sản của bên mua. Bên mua có quyền định đoạt cổ phần đó theo quy định của pháp luật; điều lệ và thỏa thuận riêng biệt giữa bên mua và những cổ đông khác của công ty.

Mua tài sản

Mua tài sản là cách thức bên mua có được quyền sở hữu tài sản mà bên bán đem bán. Tài sản được mua bán thường không mang tính riêng lẻ. Tài sản đó thường phục vụ chung cho một hoạt động kinh doanh cụ thể. Cho nên mục tiêu mà bên mua hướng đế là hoạt động kinh doanh cụ thể; chứ không phải chỉ đơn thuần là các tài sản riêng lẻ. Tài sản đó có thể là hữu hình hoặc vô hình và thường được hiểu theo nghĩa rộng: uy tín (danh tiếng tốt), đội ngũ nhân sự, nguồn hàng, mạng lưới phân phối... cũng đều có thể là "tài sản" được mua bán trong một giao dịch M&A.

Bên mua trở thành chủ sở hữu trực tiếp của tài sản và tiếp tục vận hành hoạt động kinh doanh theo cách thức của mình.

Giao dịch mua bán tài sản thường được thực hiện ở Việt nam là chuyển nhượng dự án đầu tư; mà phổ biến nhất là chuyển nhượng dự án bất động sản. Về bản chất đó là việc bên bán là chủ đầu tư hiện tại chuyển nhượng quyền thực hiện một dự án cụ thể. Các tài sản cần thiết, gắn liền với dự án, hợp đồng đã ký kết để thực hiện dự án cùng với chấp thuận của chính quyền cho phép chủ đầu tư thực hiện dự án sẽ được chuyển sang chủ đầu tư mới theo cách thức phù hợp.

doanh nghiệp phục hồi Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật nêu trên, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Mua tài sản hay mua cổ phần

Có nhiều yếu tố để khiến các bên lựa chọn phương thức mua cổ phần hoặc mua tài sản. Dưới đây là một số yếu tố chủ yếu, bao gồm: (i) Mục đích thương mại; (ii) Pháp lý; (iii) Thuế; (iv) Chấp nhận của bên thứ ba; (v) Thời gian cần thiết để hoành thành giao dịch.

Mục đích thương mại

Mục đích thương mại mà bên hướng đến là yếu tố quan trọng nhất quyết định cơ cấu giao dịch.

Nếu công ty mục tiêu có nhiều hoạt động kinh doanh mà bên mua chỉ quan tâm đến một hoặc một vài hoạt động kinh doanh mua cổ phần trong công ty mục tiêu có thể không khả thi vì bên bán chưa chắc đã muốn bán toàn bộ sản nghiệp của mình hoặc bên mua không có nhu cầu hoặc có khi không đủ tiền để mua. Khi có mua lại tài sản sẽ là phương án tốt hơn.

Nếu bên bán muốn ngừng kinh doanh, mua cổ phần; mua tài sản có thể đều khả thi về mặt thương mại. Tuy nhiên nếu bên bán muốn tìm đối tác, sẵn sàng chia sẻ quyền điều hành công ty mục tiêu nhằm tận dụng vốn hoặc năng lực của bên mua để phát triển hoạt động kinh doanh của công ty mục tiêu, khi đó mua cổ phần (bằng việc bán lại một phần cổ phần hoặc phát hành cổ phần mới) sẽ hợp lý hơn là mua tài sản.

Trong giao dịch mua tài sản, bên mua có thể lựa chọn tài sản cụ thể mà mình muốn, đánh giá cao. Bên cạnh đó loại bỏ những tài sản không cần thiết. Còn trong giao dịch mua cổ phần,  bên mua phải mua toàn bộ những gì công ty mục tiêu đang có; dù là xấu tốt, cần thiết hay không cần thiết.

Lý do về mặt pháp lý

Không phải lúc nào các bên cũng có thể lựa chọn cả hai phương thức. Do còn những quy định hạn chế của pháp luật. Quy định pháp luật cũng khiến phương thức này có được nhiều ưu thế hơn. Pháp luật hầu như không đặt ra điều kiện gì để cổ đông bán cổ phần của mình trong công ty.

Một điểm lợi thế của phương thức mua cổ phần đó chính là bên mua sẽ gián tiếp sở hữu tất cả tài sản của công ty mục tiêu và tất cả giấy phép, chấp thuận của chính quyền  mà công ty mục tiêu đang có để tiến hành hoạt động kinh doanh hiện tại sẽ tiếp tục có hiệu lực. Ngược lại bên mua trong giao dịch mua tài sản lại phải xin cấp lại (bằng việc sửa đổi hoặc cấp mới) hầu như toàn bộ các giấy phép, chấp thuận của chính quyền cần thiết để tiến hành hoạt động kinh doanh được mua lại.

Nếu như trong giao dịch mua tài sản, bên mua không kế thừa bất kỳ nghĩa vụ; trách nhiệm nào của bên bán đối với tài sản được mua bán. Thì trong giao dịch mua cổ phần, bên mua phải kế thừa nghĩa vụ, trách nhiệm của công ty mục tiêu từ bên bán, tương đương với tỷ lệ cổ phần được mua bán. Nghĩa vụ, trách nhiệm đó có thể là nghĩa vụ với đối tác trong các hợp đồng, nghĩa vụ đối với người lao động trong thỏa ước lao động tập thể, nghĩa vụ thuế với nhà nước hoặc trách nhiệm đã phát sinh hay đang tiềm tàng của công ty mục tiêu.

Lý do về thuế

Nghĩa vụ thuế của bên mua và bên bán là khác nhau trong hai phương thức mua cổ phần và mua tài sản, kể cả về loại thuế lẫn mức thuế. Nếu giao dịch mua cổ phần được thực hiện dưới hình thức phát hành cổ phần mới, bên mua lẫn bên bán (công ty mục tiêu) có thể không phải đóng một đồng thuế nào cả.

Chấp thuận của bên thứ ba

Trong giao dịch mua cổ phần, các bên thường không phải xin nhiều loại chấp thuận của bên thứ ba. Chấp thuận đó thường là chấp thuận của các cổ đông; còn lại theo pháp luật, theo điều lệ hoặc theo thỏa thuận riêng biệt của các bên. Nếu bên mua là nhà đầu tư nước ngoài thì đó là chấp thuận của chính quyền. Cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần trong doanh nghiệp Việt Nam.

Ngược lại trong giao dịch mua tài sản, tùy thuộc vào loại tài sản được chuyển nhượng mà bên bán phải có được sự đồng ý của nhiều bên thứ ba nếu muốn giao dịch thành công. Chẳng hạn như để chuyển nhượng dự án bên bán sẽ phải được chấp thuận của chính quyền, chuyển nhượng nghĩa vụ trong hợp đồng cũng phải được sự đồng ý của bên còn lại của hợp đồng (bên có quyền), người lao động cũng chỉ được chuyển sang làm việc cho công ty mới nếu họ đồng ý, các giấy phép kinh doanh cũng cần phải được sửa đổi sau khi làm thủ tục với cơ quan nhà nước có liên quan.

Thời gian cần thiết để hoàn thành giao dịch

Do đặc tính của bên mua phải kế thừa nghĩa vụ trách nhiệm của công ty mục tiêu; các bên trong giao dịch mua cổ phần phải dành nhiều thời gian cho soát xét pháp lý. Tuy nhiên quá trình chuyển giao quyền sở hữu lại diễn ra khá nhanh chóng. Đặc biệt là khi bên mua và bên bán đều là cá nhân hoặc tổ chức trong nước.

Ngược lại, trong giao dịch mua tài sản, các bên sẽ phải thực hiện nhiều thủ tục riêng rẽ để chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản từ bên mua sang bên bán. Thủ tục "sang tên, đổi chủ" đối với nhiều loại tài sản khá phức tạp và tốn nhiều thời gian. Hợp đồng lao động cũng cần ký lại với từng người lao động. Các loại giấy phép cũng cần được sửa đổi hoặc cấp mới. Quy định pháp luật hiện tại cũng thiếu vắng thủ tục mang tính cụ thể hay được đơn giản hóa để điều chỉnh các loại giấy phép, giấy chứng nhận, chấp thuận khác của chính quyền trong giao dịch M&A theo phương thức mua tài sản.

Do tính nhanh chóng của quá trình chuyển giao quyền sở hữu từ bên bán sang bên mua;giao dịch mua cổ phần không ảnh hưởng lớn đến hoạt động liên tục của công ty mục tiêu. Ngược lại, giao dịch mua tài sản lại có thể khiến hoạt động kinh doanh bị gián đoạn; do thủ tục chuyển giao quyền sở hữu kéo dài.

Nhờ vào những thuận lợi này mà phương thức này mang lại, mua cổ phần trở thành phương thức được sử dụng phổ biến nhất cho giao dịch M&A ở Việt Nam.

Sáp nhập và hợp nhất M&A tại Việt Nam

Phương thức sáp nhập hoặc hợp nhất thường ít được sử dụng trong giao dịch M&A tại Việt Nam. Dưới đây có thể là một số lý do giải thích thực tế này.

Quy định của pháp luật Việt Nam về sáp nhập hợp nhất nói chung còn sơ sài, chung chung.

Đầu tư nước ngoài là động lực cơ bản thúc đẩy giao dịch M&A tại Việt Nam, nhưng pháp luật Việt Nam chưa sẵn sàng cho việc sáp nhập hoặc hợp nhất doanh nghiệp Việt Nam với các công ty ở nước ngoài.

Thủ tục hành chính để chuyển tài sản từ công ty bị sáp nhập; công ty hợp nhất nhìn chung không rõ ràng và thường tốn nhiều thời gian, chi phí.

Sáp nhập hoặc hợp nhất đều gắn liền với việc phải chuyển giao quyền và nghĩa vụ; Tuy nhiên, chuyển giao nghĩa vụ trong hợp đồng phải được sự đồng ý của các bên còn lại.

Sau khi hợp nhất hoặc sáp nhập, công ty hợp nhất hoặc công ty nhận sáp nhập phải kế thừa nợ và các nghĩa vụ khác của công ty bị hợp nhất, công ty bị sáp nhập. Điều này tạo nên rủi ro lớn cho bên mua.

Phương thức sáp nhập hợp nhất thường được dùng để tái cơ cấu lại công trong một nhóm công ty.

Chia, tách công ty thường được sử dụng như là một bước đệm trong giao dịch M&A mua cổ phần.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện; nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật; hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng kiến thức ý kiến của chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy; đặc biệt cuốn sách Pháp luật về hợp đồng của tác giả, luật sư Trương Nhật Quang. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo; bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.
Hồ Thị Ngọc Ánh

Hồ Thị Ngọc Ánh

https://luatcongty.vn Hồ Thị Ngọc Ánh là chuyên viên pháp lý của một công ty luật tại Hà Nội. Hiện tại Ngọc Ánh cũng đang là content editor của website luatcongty.vn

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.19255 sec| 1039.484 kb