Khi tiến hành dự án công trình hoặc dự án kinh doanh, chủ dự án thường kêu gọi vốn đầu tư. Vốn đầu tư là nguồn vốn dùng để chi trả chi phí hoạt động của dự án đó. Hiện nay, nhiều người vẫn nhầm lẫn vốn đầu tư với vốn điều lệ của một doanh nghiệp.
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật nêu trên – gọi tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198Đầu tư vốn là họat động sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi bỏ vào một dự án, mục tiêu kinh doanh nào đó. Theo thời gian, nhà đầu tư hi vọng nguồn tiền đó sẽ mang lại lợi nhuận trong tương lai.
Vốn đầu tư là nguồn tài sản tích lũy của xã hội, của các đơn vị sản xuất kinh doanh, nguồn tiền tiết kiệm của dân… được dùng để tái sản xuất xã hội, tạo ra các tiềm lực mới thông qua dự án đầu tư. Nhà đầu tư dùng nguồn vốn đầu tư để chi trả toàn bộ chi phí để thực hiện hoạt động đầu tư, phát triển dự án. Nguồn vốn đầu tư còn được dùng để đổi mới, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật cho doanh nghiệp, phục vụ mục đích mở rộng kinh doanh.
Một doanh nghiệp có thể đầu tư nhiều dự án đầu tư khác nhau phụ thuộc vào nguồn lực tài chính của doanh nghiệp. Nhà đầu tư sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư khi tiến hành đầu tư kinh doanh.
Nguồn vốn đầu tư được hình thành từ hai nguồn chính là vốn nước ngoài và vốn trong nước.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật để có thể tiếp thu và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước chính là khối lượng vốn đầu tư trong nước. Tỷ lệ giữa vốn huy động được ở trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài tuỳ thuộc vào đặc điểm và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước.
Xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư trong nước, gồm:
(i) Vốn ngân sách nhà nước: gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Vốn ngân sách được hình thành từ vốn tích luỹ của nền kinh tế và được Nhà nước duy trì trong kế hoạch ngân sách để cấp cho đơn vị thực hiện các công trình thuộc kế hoạch Nhà nước.
(ii) Vốn của các doanh nghiệp quốc doanh: Được hình thành từ lợi nhuận để lại của các doanh nghiệp để bổ sung cho vốn kinh doanh. Nguồn vốn này luôn có vai trò to lớn và tác dụng trực tiếp nhất đối với tốc độ tăng trưởng hàng năm của tổng sản phẩm trong nước. Đây chính là nguồn vốn mà các chính sách kinh tế trong các giai đoạn tiếp theo.
(iii) Vốn của tư nhân và của hộ gia đình:Trong xu hướng khuyến khích đầu tư trong nước và cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ thì nguồn vốn đầu tư từ khu vực này ngày càng lớn về quy mô và tỷ trọng so với vốn đầu tư của khu vực Nhà nước.
(iv) Vốn đầu tư của tư nhân hay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là phần lợi nhuận còn lại sau khi trừ đi các loại thuế và các khoản lãi cho các cổ đông (đối với công ty cổ phần). Vốn của dân cư là phần thu nhập chưa dùng đến thường được tích luỹ dưới dạng trữ kim, USD hay các bất động sản hoặc gửi tiết kiệm trong ngân hàng hoặc ngày công lao động.
Vốn đầu tư nước ngoài là vốn của các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào trong nước dưới các hình thức đầu tư gián tiếp hoặc đầu tư trực tiếp.
(i) Vốn đầu tư gián tiếp: là vốn của các Chính Phủ, các tổ chức quốc tế như: Viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với lãi suất thấp với thời hạn dài, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới hình thức ODA-Viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thương lớn, cho nên tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Vai trò đầu tư gián tiếp được thể hiện ở những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Hàn Quốc, philipine những năm sau giải phóng và đối với Việt Nam những năm chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với việc trả giá bằng chính trị và nợ nần chồng chất nếu không sử dụng có hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay. Các nước Đông Nam á và NICS Đông á đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngắn hạn rất hạn chế và đặc biệt không vay thương mại. Vay dài hạn lãi suất thấp, việc trả nợ không khó khăn ví có thời gian hoạt động đủ để thu hồi vốn.
(ii) Vốn đầu tư trực tiếp (FDI): là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Vốn này thường không chỉ đủ lớn để giải quyết dứt diểm từng vấn đề kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư . Tuy nhiên, với vốn đầu tư trực tiếp, nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ ( do người đầu tư dem vào góp vốn sử dụng ), trong đó có cả công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương, ví lý do cạnh tranh hay cấm vận nước nhận đầu tư; học tập kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới ; nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Nước nhận đầu tư trực tiếp phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư theo mức độ góp vốn cuả họ. Vì vậy, có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp sẽ làm cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm