Điều 6 Nghị định 103/2017/NĐ-CP và Nghị định 136/2013/NĐ-CP quy định cụ thể về các đối tượng phục vụ của cơ sở trợ giúp xã hội, bao gồm:
Khoản 1 Điều 25 Nghị định 136/2013/NĐ-CP quy định đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bao gồm:
Trẻ em không có nguồn nuôi dưỡng theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định này và trẻ em, người bị nhiễm HIV theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định này thuộc diện khó khăn không tự lo được cuộc sống và không có người nhận chăm sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng;
Người cao tuổi thuộc diện được chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội theo quy định của pháp luật về người cao tuổi;
Trẻ em khuyết tật, người khuyết tật thuộc diện được chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.
Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198Những người sau đây được xác định là đối tượng cần bảo vệ khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định 103/2017/NĐ-CP, bao gồm:
Nạn nhân của bạo lực gia đình; nạn nhân bị xâm hại tình dục; nạn nhân bị buôn bán; nạn nhân bị cưỡng bức lao động;
Trẻ em, người lang thang xin ăn trong thời gian chờ đưa về nơi cư trú.
Ngoài những đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng cần được bảo vệ khẩn cấp thì những đối tượng sau cũng thuộc đối tượng phục vụ của cơ sở trợ giúp xã hội:
Người chưa thành niên không có nơi cư trú ổn định bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
Những người không thuộc diện đối tượng bảo trợ xã hội nhưng có nhu cầu được trợ giúp xã hội, tự nguyện đóng góp kinh phí hoặc có người thân, người nhận bảo trợ đóng góp kinh phí (sau đây gọi chung là đối tượng tự nguyện);
Các đối tượng khác theo chương trình, đề án hỗ trợ hoặc do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm