Nội dung bài viết [Ẩn]
Hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân đều là những mô hình được quy định cụ thể trong Luật doanh nghiệp năm 2014 và Hướng dẫn tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP, theo đó, hai hình thức này đều là do cá nhân làm chủ, và pháp luật quy định không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Theo quy định tại Khoản Điều 183 Luật doanh nghiệp năm 2015 và Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP, chủ thể thành lập của doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh có những điểm khác biệt sau đây:
Một là, đối với doanh nghiệp tư nhân chỉ duy nhất do một cá nhân thành lập và cá nhân đó phải chịu trách nhiệm mọi trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của chính mình. Trong khi đó, đối với hộ kinh doanh, do tính chất của hộ kinh doanh có thể do một cá nhân thành lập hoặc có thể là một nhóm, một hộ gia đình cùng thành lập. Do đó, việc chịu trách nhiệm đối với hộ kinh doanh cũng sẽ mang tính chất là trên cơ sở toàn bộ tài sản của cá nhân, của nhóm hoặc của hộ gia đình. Như vậy, mặc dù cùng tính chất là chịu trách nhiệm vô hạn của người thành lập đối với doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh. Tuy nhiên, nếu như doanh nghiệp tư nhân chỉ là trách nhiệm của một cá nhân thì ở hộ kinh doanh có thể là của một nhóm người hoặc của một hộ gia đình.
Hai là, về quyền góp vốn thành lập của chủ doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 183 Luật doanh nghiệp năm 2014, về nguyên tắc doanh nghiệp tư nhân sẽ không được thực hiện việc góp vốn thành lập cũng như việc mua cổ phần hoặc phần vốn góp với những mô hình công ty khác như công ty hợp danh, trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Trong khi đó, đối với hộ kinh doanh, theo quy định tại Khoản 2 Điều 67 Nghị định 78/2015/NĐ-CP, cá nhân, hộ gia đình thành lập hộ kinh doanh lại hoàn toàn được quyền góp vốn, mua cổ phần trong doanh nghiệp với tư cách cá nhân.
Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198Ba là, đối với doanh nghiệp tư nhân, người thành lập doanh nghiệp tuyệt đối không thể đồng thời là chủ hộ kinh doanh hoặc thành viên trong những công ty hợp danh. Tuy nhiên, với hộ kinh doanh, vẫn có quy định ngoại lệ, theo đó cá nhân thành lập hoặc tham ga góp vốn thành lập hộ kinh doanh vẫn có thể đồng thời là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại (theo quy định tại Khoản 3 Điều 67 Nghị định 78/2015/NĐ-CP)
Doanh nghiệp tư nhân được thành lập với vốn đầu tư do chủ doanh nghiệp đăng ký, không giới hạn về quy mô, vốn và địa điểm kinh doanh. Ngược lại, đối với hộ kinh doanh lại có những giới hạn cụ thể, theo đó hộ kinh danh chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động. Đối với những hộ kinh doanh có quy mô lớn hơn phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về việc đăng ký doanh nghiệp (Theo quy định tại Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP).
Doanh nghiệp tư nhân: buộc phải đăng kí kinh doanh, được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, phải có con dấu trong quản lý được cơ quan công an cấp. Ngược lại, đối với hộ kinh doanh không phải trong mọi trường hợp đều phải đăng ký kinh doanh. Cụ thể đối với những hộ gia đình đang trực tiếp thực hiện việc sản xuất về nông nghiệp, lâm nghiệp, nghư nghiệp, muối hoặc thực hiện những hoạt động buôn bán như hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, dịch vụ thu nhập thấp hoặc buôn chuyến thì trừ những ngành nghề có điều kiện sẽ không phải thực hiện đăng ký kinh doanh (Theo quy định tại Khoản 2 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP)
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm