Môi giới thương mại là hoạt động của thương nhân (người môi giới thương mại) làm trung gian cho các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại để hưởng thù lao. Đặc điểm của hoạt động này là gì? Quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quan hệ này được pháp luật hiện hành quy định như thế nào?
Môi giới thương mại lần đầu tiên được quy định trong Luật thương mại năm 1997 và tiếp tục được quy định trong Luật thương mại năm 2005. Để thực hiện hoạt động môi giới thương mại, người môi giới phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh để thực hiện dịch vụ môi giới.
Nội dung hoạt động môi giới thương mại thường bao gồm: Tìm kiếm bạn hàng, cung cấp các thông tin cần thiết về bạn hàng cho người được môi giới, giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ cần môi giới, tiến hành các đàm phán ban đầu với bạn hàng, thoả thuận về các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa các bên được môi giới, giúp đỡ các bên được môi giới soạn thảo văn bản hợp đồng khi cần thiết.
Các hoạt động môi giới việc làm, môi giới chứng khoán... không được coi là môi giới thương mại và không do Luật thương mại điều chỉnh.
Mô giới thương mại là một dạng về các hoạt động trung gian thương mại. Bạn có thể tham khảo chung về trung gian thương mại tại đây!Môi giới thương mại là một trong bốn hoạt động trung gian thương mại mà Luật thương mại năm 2005 quy định. Xét về bản chất thì môi giới thương mại là một loại hình dịch vụ thương mại. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, môi giới được hiểu là làm trung gian để cho hai bên tiếp xúc, giao thiệp với nhau.
Tương tự với cách hiểu thông thường về môi giới, Điều 150 Luật thương mại 2005 đã định nghĩa môi giới thương mại như sau:
“Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới”.
Môi giới thương mại có những đặc điểm sau:
(i) Chủ thể của quan hệ môi giới thương mại gồm bên môi giới và bên được môi giới, trong đó bên môi giới phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh để thực hiện dịch vụ môi giới thương mại và không nhất thiết phải có ngành nghề đăng ký kinh doanh trùng với ngành nghề kinh doanh của các bên được môi giới. Pháp luật hiện hành không quy định bên được môi giới có nhất thiết phải là thương nhân hay không. Trong hoạt động môi giới thương mại, không phải tất cả các bên được môi giới đều có quan hệ môi giới thương mại với bên môi giới mà chỉ bên được môi giới nào ký hợp đồng môi giới với bên môi giới thì giữa họ mới phát sinh quan hệ môi giới thương mại.
Khi sử dụng dịch vụ môi giới thương mại, bên môi giới nhân danh chính mình để quan hệ với các bên được môi giới và làm nhiệm vụ giới thiệu các bên được môi giới với nhau. Sau đó, các bên được môi giới trực tiếp giao kết hợp đồng với nhau. Neu họ thay mặt bên được môi giới ký hợp đồng với khách hàng thì họ sẽ trở thành bên đại diện không đúng thẩm quyền của bên được môi giới. Tuy nhiên, Luật Thương mại của Việt Nam không cấm bên được môi giới ủy quyền cho bên môi giới ký hợp đồng với khách hàng. Trong trường họp này, bên môi giới hành động với tư cách của bên đại diện.
(ii) Nội dung hoạt động môi giới rất rộng, bao gồm nhiều hoạt động như: tìm kiếm và cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành các hoạt động giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các bên được môi giới tiếp xúc với nhau, giúp đỡ các bên được môi giới soạn thảo văn bản hợp đồng khi họ yêu cầu. Mục đích của hoạt động môi giới là các bên được môi giới giao kết hợp đồng với nhau.
Môi giới thương mại là một hoạt động kinh doanh thuần tuý. Mục đích của bên môi giới thương mại khi thực hiện việc môi giới là tìm kiếm lợi nhuận. Bên môi giới thông thường được hưởng thù lao khi các bên được môi giới đã giao kết hợp đồng với nhau.
(iii) Phạm vi của môi giới thương mại được mở rộng không chỉ bao gồm những hoạt động môi giới mua, bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại liên quan đến mua bán hàng hoá. Do đó, môi giới thương mại bao gồm tất cả các hoạt động môi giới có mục đích kiếm lợi như môi giới mua bán hàng hoá, môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới tàu biển, môi giới thuê máy bay, môi giới bất động sản... Tuy nhiên, Luật Thương mại là luật chung Điều chỉnh các hoạt động thương mại nên những quy định về môi giới thương mại trong luật này chỉ mang tính nguyên tắc còn các hoạt động môi giới trong từng lĩnh vực riêng biệt lại được luật chuyên ngành quy định cụ thể.
(iv) Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi giới.
Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới, bên môi giới phải là thương nhân còn bên được môi giới không nhất thiết phải là thương nhân (vì pháp luật không quy định gì về điều kiện của bên được môi giới). Đối tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới nhằm chắp nối quan hệ giữa các bên được môi giới với nhau. Trong mục 2 về hoạt động môi giới thương mại thuộc chương V, Luật Thương mại năm 2005 quy định về hoạt động trung gian thương mại không đề cập về hình thức của hợp đồng môi giới thương mại. Tuy nhiên, hợp đồng môi giới thương mại là loại hợp đồng dịch vụ thương mại nên theo quy định tại Điều 74 Luật Thương mại năm 2005 thì hợp đồng môi giới nói riêng và hợp đồng dịch vụ nói chung được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Khi giao kết hợp đồng môi giới thương mại các bên nên thỏa thuận những điều, khoản về nội dung cụ thể của việc môi giới, mức thu lao mà bên môi giới sẽ được nhận, thời hạn thực hiện hợp đồng môi giới, quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phậm hợp đồng; hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng môi giới.
Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới như sau:
Nghĩa vụ của bên môi giới
Theo quy định tại Điều 151 Luật Thương mại 2005, nghĩa vụ của bên môi giới thương mại sẽ được xác định như sau nếu không có thỏa thuận nào khác giữa 2 bên môi giới và bên được môi giới:
(i) Bảo quản các mẫu hàng hoá, tài liệu được giao để thực hiện việc môi giới và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoàn thành việc môi giới;
(ii) Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được môi giới.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng môi giới, có thể bên môi giới biết được một số thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh của bên được môi giới thì Bên môi giới chỉ được sử dụng các thông tin này để thực hiện việc môi giới theo hướng có lợi cho bên được môi giới.
(iii) Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên được môi giới, nhưng không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ.
Có nghĩa, thứ nhất, bên môi giới có trách nhiệm cung cấp chính xác về tư cách pháp lý của đối tác cho bên được môi giới. Thứ hai, bên môi giới không tham gia vào quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ thương mại được giao kết giữa các bên nên vấn đề về khả năng thanh toán, thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của đối tác, bên môi giới không có bất kỳ trách nhiệm nào.
(iv) Không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có uỷ quyền của bên được môi giới.
Quyền của bên môi giới
Tại Điều 153 Luật thương mại 2005 quy định về quyền được hưởng thù lao của bên môi giới.
Theo đó, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Bên môi giới sẽ hưởng thù lao từ việc thực hiện các công việc trong hợp đồng môi giới mà các bên đã ký kết.
Điều này có nghĩa là việc các bên được môi giới không thực hiện hợp đồng đã giao kết hoàn toàn không làm ảnh hưởng tới quyền hưởng thù lao của bên môi giới.
Nếu trong hợp đồng, các bên không thỏa thuận được mức thù lao thì mức thù lao môi giới được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ.
Quyền và nghĩa vụ của bên được môi giới đối với bên môi giới
Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới như sau:
Quyền của bên được môi giới
Luật thương mại 2005 không quy định về quyền của bên được môi giới, tuy nhiên từ các căn cứ về nghĩa vụ của bên môi giới, có thể thấy bên được môi giới có các quyền sau:
(i) Yêu cầu bên môi giới bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu đã được giao để thực hiện việc môi giới và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoàn thành việc môi giới.
(ii) Yêu cầu bên môi giới không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của mình.
Nghĩa vụ của bên được môi giới
Theo quy định tại Điều 152 Luật thương mại 2005, nếu không có thỏa thuận khác bên được môi giới có các nghĩa vụ sau:
(i) Cung cấp các thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết liên quan đến hàng hoá, dịch vụ;
(ii) Trả thù lao môi giới và các chi phí hợp lý khác cho bên môi giới.
Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm kiến thức về thương mại, hãy click vào đây!
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm